Ngọc bình phong tán – Cố biểu Thánh dược – Bức bình phong bằng ngọc bảo vệ cơ thể

Phương thuốc truyền thừa gần ngàn năm, phù hợp già trẻ, dùng thuốc ôn hòa, đến nay vẫn là một trong những phương thang ứng dụng rộng rãi trên lâm sàng chính là Ngọc Bình Phong Tán. Chỉ với 3 vị thuốc nhưng có thể kiện trung phù chính, ích khí cố biểu. Vậy Ngọc bình phong tán rốt cuộc là phương thuốc thần kì thế nào? Bí mật nào ẩn sau phương thuốc nổi danh này?

Nguồn gốc xuất xứ

Giới Trung y có ba quan điểm về nguồn gốc của Ngọc Bình Phong Tán – 玉屏風散:

  • Thứ nhất, Ngọc Bình Phong Tán xuất phát từ sách 《世医得效方 – Thế Y Đắc Hiệu Phương》 của Ngụy Diệc Lâm đời Nguyên.
  • Thứ hai, xuất phát từ sách 《丹溪心法 – Đan Khê Tâm Pháp》 của Chu Đan Khê (Chu Chấn Hanh), một trong Tứ Đại Gia đời Nguyên.
  • Thứ ba, sách Phương Tễ Học của các trường Trung y hiện nay cho rằng nó xuất phát từ 《究原方 – Cứu Nguyên Phương》.

Đầu tiên, sách Thế Y Đắc Hiệu Phương hoàn thành vào năm 1337 đời Nguyên, mãi đến năm 1343 mới được in. Nhưng các nhà Trung y tìm kiếm trong sách này rất lâu vẫn không thấy bóng dáng của Ngọc Bình Phong Tán. Nguồn gốc của luận điểm này xuất phát từ sách 《证治准绳. 自汗 – Chứng trị chuẩn thằng – Tự hãn》 của Vương Khẳng Đường đời Minh ghi lại: Ngọc Bình Phong Tán (Đắc Hiệu): Phòng Phong, Hoàng Kỳ (mỗi vị 1 lạng), Bạch Truật (2 lạng). Mỗi lần uống 3 tiền, 2 chén nước, 3 lát gừng, sắc 6 phần, uống ấm không kể thời gian”. Từ sau Vương Khẳng Đường, các y gia đời sau khi ghi chép nguồn gốc đều lấy Thế Y Đắc Hiệu Phương làm chuẩn , ví dụ như

  •  兰台轨范· 通治方 – Lan Đài Quỹ Phạm – Thông Trị Phươngcủa Từ Linh Thai đời Thanh ghi: “Ngọc Bình Phong Tán (Đắc Hiệu): trị phong tà lưu lại lâu không tán, tự hãn không dứt cũng nên dùng”.
  • 《汤头歌诀 – Thang Đầu Ca Quyết》của Uông Ngang đời Thanh ghi: “Ngọc Bình Phong Tán (Thế Y Đắc Hiệu Phương) Hoàng Kỳ 6 lạng, Bạch Truật, Phòng Phong mỗi vị 2 lạng”.

Còn Đan Khê Tâm Pháp ban đầu vốn do Chu Đan Khê (1281-1358) khởi thảo, là tuyển tập ghi chép lại những tâm đắc trong cả đời ông trong việc hành nghề Y, nhưng về sau bộ sách này còn được các đệ tử chân truyền của ông thu thập, chỉnh lý thêm mà tập thành, đặt tên là “Đan Khê tâm pháp 丹溪心法” sau khi ông qua đời. Mãi tới đầu niên hiệu Thành Hóa nhà Minh (ND: 1465 – 1487), có Vương Qúy thêm phần “PHỤ PHƯƠNG” rồi cho khắc mộc bản ở Tây Thục, có lòng muốn quảng bá đi khắp nơi, để cho mọi người đều được đọc, không lo bị mai một.

Còn Cứu Nguyên Phương mặc dù sách gốc đã thất lạc, nhưng rất nhiều chuyên luận của các y gia đời sau đều trích dẫn nguyên văn của nó.

  • 《黎居士简易方论 – Lê Cư Sĩ Giản Dị Phương Luận》của Lê Dân Thọ đời Tống ghi: “Cứu Nguyên Phương Ngọc Bình Phong Tán, trị tấu lý không kín đáo, dễ bị cảm mạo”
  • 《永类钤方 – Vĩnh Loại Linh Phương》của Lý Trọng Nam đời Nguyên ghi: “Cứu Nguyên Phương Ngọc Bình Phong Tán, trị tấu lý không kín đáo”.

Cứu Nguyên Phương do Trương Tùng đời Tống biên soạn, hoàn thành vào Gia Định năm thứ sáu (1213) đời Nam Tống , niên đại thành sách này sớm hơn nhiều so với Thế Y Đắc Hiệu Phương và Đan Khê Tâm Pháp.

Ngoài ra còn một số quan điểm khác về nguồn gốc của Ngọc Bình Phong Tán nhưng phần lớn các tác giả đều không chứng minh được tài liệu chính thống.

Cho nên, có thể nói Ngọc Bình Phong Tán xuất phát từ Cứu Nguyên Phương của Trương Tùng. Tính từ sách Cứu Nguyên Phương, Ngọc Bình Phong Tán đã được truyền thừa hơn 800 năm.

Thành phần bài Ngọc Bình Phong Tán

Trong quá trình truyền thừa hàng trăm năm, các y gia Khi sử dụng Ngọc Bình Phong Tán đều có suy nghĩ, quan điểm và kinh nghiệm của riêng mình, nhưng phương thuốc này vẫn không thay đổi hành phần bởi rất khó thay đổi khi bài thuốc chỉ có 3 vị: Hoàng kỳ, Bạch truật, Phong phong.

Tuy nhiên sau khi thu thập 26 công thức Ngọc Bình Phong Tán qua các thời kỳ, các chuyên gia nhận thấy có sự khác nhau về liều lượng, cách bào chế và công dụng của bài thuốc.

Phân tích thành phần

Khúc Vận Bác đời Thanh từng mô tả về bài Ngọc Bình Phong Tán: “Phù dĩ Phòng Phong chi thiện khu phong, đắc Hoàng Kỳ dĩ cố biểu tắc ngoại hữu sở úy; đắc Bạch Truật dĩ cố lý tắc nội hữu sở cứ, phong tà khứ nhi bất phục lai. Thử dục tán phong tà giả, đương ỷ như bình, trân như ngọc dã.”  Nghĩa là: “Phàm Phòng Phong giỏi trừ phong, có Hoàng Kỳ để cố biểu thì bên ngoài có cái để e sợ; có Bạch Truật để cố lý thì bên trong có cái để dựa vào. Phong tà đi rồi không trở lại. Người muốn tán phong tà, nên coi nó như bức bình phong, quý như ngọc”

  • Trung y cho rằng nguyên nhân gây bệnh được chia làm ngoại nhân, nội nhân và bất nội ngoại nhân. Trong đó “Ngoại nhân” chính là Lục dâm – Lục tà bao gồm Phong tà, Hàn tà, Thử tà, Thấp tà, Táo tà, Hỏa tà. Phong là ngọn nguồn của trăm bệnh. Nó rất dễ kết hợp với các ngoại tà khác cùng nhau xâm phạm vào cơ thể gây ra nhiều bệnh tật nhất. Phòng phong rất giỏi trị phong nhưng phong này không phải phong khí mát mẻ bình thường, phong này là phong tà, tặc phong, phong thái quá.
  • Hoàng Kỳ có tác dụng cố biểu chỉ hãn, làm vững bề mặt cầm mồ hôi. Như vậy không cần lo lắng đến phần ngoại tà bên ngoài.
  • Bạch truật cố lý, củng cố nội lực.

⇒ Phòng phong đánh giặc ngoài thành, Hoàng kỳ đóng cửa thành kiên cố, Bạch truật làm quân trong thành dũng mãnh ⇒ Cơ thể nếu bị nhiễm phong tà sẽ trừ phòng tà, phong tà đi rồi cơ thể sẽ không mắc lại nữa. Cơ thể thiết lập được hệ thống phòng dịch hoàn chỉnh, chức năng bên trong và bên ngoài được củng cố, giống như bức bình phong chắn.

Ba vị thuốc cũng phải tuân theo nguyên tắc Quân, Thần, Tá, Sứ:

  • Hoàng Kỳ: Ngọt ấm, bên trong đại bổ khí Phế Tỳ, bên ngoài cố biểu chỉ hãn, là Quân dược.
  • Bạch Truật: Ngọt ấm, kiện Tỳ ích khí, phối hợp với Hoàng Kỳ tăng cường tác dụng cố biểu chỉ hãn, là Thần dược. Dùng Bạch truật làm thần là vì vệ khí là tinh hoa thủy cốc hóa sinh (thủy cốc nhập vị tán tinh ư phế), vệ khí hư ắt phế khí bị ảnh hưởng. Theo lý luận đông y, hư tắc bổ kỳ mẫu (con hư thì bổ mẹ), phế hư thì kiện tỳ để bồi thổ sinh kim.
  • Còn Phòng Phong cay, đắng ấm có tác dụng sơ tán phong tà, là Tá Sứ dược. Khi phong tà đã xâm phạm thì phải đuổi tà ra, tuyệt đối không đóng cửa lưu tà. Hoàng Kỳ có Phòng Phong thì bổ hư ích khí mà không giữ lại tà khí (bất lưu tà); Phòng Phong có Hoàng Kỳ thì sơ phong mà không làm tổn thương chính khí (bất thương chính).

Ngọc Bình Phong Tán trong thiết kế phối ngũ cũng đạt đến mức trong bổ có công, trong công có bổ. Ngọt ấm có thể bổ. Cay ấm có thể tán. Vừa bổ vừa tán.

Vì vậy, trong một đơn thuốc Trung y, nhất định phải có sự công bổ kiêm thi, âm dương phối hợp cân bằng trong việc dùng thuốc, phương hướng tấn công rõ ràng, phối ngũ nghiêm ngặt, liều lượng vừa phải mới tạo ra một danh phương lưu truyền thiên cổ.

Tỷ lệ phối hợp ảnh hưởng công dụng

STT Năm Triều đại Xuất xứ (Nguồn) Chủ trị Thành phần Cách bào chế/Cách dùng
1 1260 Tống Lê Cư Sĩ giản dị luận – Chương 11 – Tấu lý bất mật (tấu lý đóng không kín), dễ bị cảm mạo Phòng phong (1 lạng), Hoàng kỳ sao mật 2 lạng, Bạch truật (2 lạng). Nghiền thành bột mịn, mỗi lần uống 3 tiền, thêm chén rưỡi nước, 1 quả táo tàu, đun còn 7/10 bỏ bã, uống nóng sau ăn.
2 1347 Nguyên Đan Khê tâm pháp – Quyển 3 – Tự hãn Chứng Tự hãn (ra mồ hôi tự nhiên). Phòng phong, Hoàng kỳ (1 lạng), Bạch truật (2 lạng). Mỗi lần uống 3 tiền, thêm chén rưỡi nước, 3 lát gừng, sắc uống, uống ấm.
Nguyên Ma chẩn toàn thư Tự hãn bất chỉ, khí hư biểu nhược, dễ cảm phong hàn Chích hoàng kỳ, Phòng phong (1 lạng), Bạch truật sao (2 lạng) Tán bột, mỗi lần uống 3 tiền
3 1443 Minh Chứng trị yếu quyết loại phương – Quyển 3 – Loại tán Hoàng kỳ,Phòng phong ( tiền), Bạch truật (1 lạng), Sắc uống
4 1556 Minh Cổ kim y thống đại toàn – Quyển 51 – Tự hãn môn Biểu hư tự hãn. Phòng phong, Hoàng kỳ chích mật (các vị 1 tiền), Bạch truật (sao 2 tiền). Lấy chén rưỡi nước, gừng 3 lát, đun còn 7/10 uống.
5 Y học kinh lược – quý tập Tự hãn Phòng phong (1 lạng), Hoàng kỳ, Bạch truật (các vị 2 lạng). Sắc uống.
6 1584 Minh Y học khảo – Quyển 3 – Hư tổn lao sái môn – Chương 18 Khí hư tự hãn. Chích Hoàng kỳ, Phòng phong (các vị 1 lạng), Bạch truật (2 lạng). Nghiền thành bột mịn, mỗi lần uống 3 tiền.
7 1602 Minh Loại phương chứng trị chuẩn thằng – Chương 5 – Tự hãn Tự hãn. Phòng phong ,Hoàng kỳ (1 lạng), Bạch truật (2 lạng). Mỗi lần uống 3 tiền, thêm 2 chén nước, gừng 3 lát, sắc còn 6/10, uống ấm không câu nệ giờ giấc.
9 1624 Minh Cảnh nhạc toàn thư (5 tập) – Quyển 52 Biểu hư tự hãn. Hoàng kỳ chích mật, Phòng phong (các vị 1 tiền), Bạch truật sao (2 tiền). 1 chén nước, gừng 3 lát, sắc uống
10 1629 Minh Giản minh y cấu – Quyển 4 – Tự hãn Biểu hư tự hãn. Phòng phong, Hoàng kỳ (7 phân), Bạch truật (2 tiền). Thêm gừng 3 lát, táo 1 quả, sắc uống.
11 1637 Minh Y tông tất độc – Quyền 10 Biểu hư tự hãn. Phòng phong, Hoàng kỳ (1 lạng), Bạch truật (2 lạng) Mỗi lần uống 3 tiền, thêm nước một chén, 3 lát gừng, sắc còn 6/10 uống
12 1682 Thanh Y Phương Tập Giải Tự hãn bất chỉ, khí hư biểu nhược, dễ cảm phong hàn Hoàng kỳ chích, Phòng phong (1 lạng), Bạch truật sao 2 lạng Nghiền thành bột mịn, mỗi lần uống 3 tiền.
13 1694 Thanh Thang Đầu Ca Quyết Biểu hư tự hãn, người yếu dễ cảm phong tà Hoàng kỳ 6 lạng, Bạch truật, Phòng phong 2 lạng
14 1695 Thanh Trương Thị Y Thông – Quyển 15 – Hãn môn Vệ hư tự bãn, dễ cảm phong tà, bổ tỳ thực vệ Hoàng kỳ 6 lạng, Phòng phong 2 lạng, Bạch truật 4 lạng Nghiền thành bột mịn, mỗi lần uống 4 -5 tiền, thêm gừng, táo sắc uống.
15 1724 Thanh Tập nghiệm lương phương – Quyển 2 – Cảm mạo môn Hư nhược, tấu lý bất mật, dễ cảm mạo phong hàn Phòng phong 1 lạng, Hoàng kỳ chích mật, Bạch truật sao 2 lạng Tán bột mịn, mỗi lần uống 3 tiền, thêm 1 chén rưỡi nước, 1 quả táo, sắc uống
16 1739 Thanh Bất cư tập (8 quyển) – Quyển 7 Phong tà cửu lưu bất tán, tự hãn bất chỉ Phòng phong, Hoàng kỳ, Bạch truật (các vị bằng nhau).
17 1742 Thanh Y tông kim giám – Bổ danh y phương luận – Quyển 3 Phong tà cửu lưu bất tán, tự hãn bất chỉ Phòng phong, Hoàng kỳ chích mật, Bạch truật thổ sao lượng bằng nhau Tán bột mịn, uống với rượu
18 1761 Thanh Thành phương thiết dụng – Quyển 2 – Bổ dưỡng Tự hãn bất chỉ, khí hư biểu nhược, dễ cảm phong hàn Chích Hoàng kỳ, Phòng phong (1 lạng), Bạch truật sao 2 lạng Tán bột, mỗi lần uống 3 tiền
19 1764 Thanh Lan Đài Quỹ Phạm – Quyển 1 Phong tà cửu lưu bất tán, tự hãn bất chỉ Phòng phong, Hoàng kỳ, Bạch truật lượng bằng nhau, có thể gia thêm nhu mễ sao Tán bột uống với rượu
20 1776 Thanh Thông tục Thương hàn tạp chứng hạ quyết Ố phong vô hãn, phát nhiệt bất hưu, phù thũng nhuyễn Hoàng kỳ sao, Bạch truật sao (3 lạng), Phòng phong 1.5 lạng Đường cát sao đen, tán bột, mỗi lần sắc 5 tiền
21 1795 Thanh Đại phương mạch – Thương hàn tạp bệnh phương – Quyển 6 – Y phương bổ dưỡng môn Tự hãn bất chỉ, khí hư biểu nhược, dễ cảm phong hàn Hoàng kỳ chích mật, Bắc Phòng phong (1 lạng) Thổ sao Bạch truật 2 lạng Tán bột, mỗi lần uống 3 tiền, Dùng nước lọc uống hoặc giảm liều sắc uống
22 1799 Triều Tiên Khang mệnh cát.Tề chúng tân biên quyển 2 (Đông y bảo giám) Biểu hư tự hãn Phòng phong, Hoàng kỳ (1.2 tiền), Bạch truật 2.5 tiền
23 1818 Thanh Mục kinh đại thành – Quyển 3 – Cố trận Hoàng kỳ, Phòng phong (2 tiền), Bạch truật 4 tiền
24 1824 Thanh Bút Hoa Y Kính – Quyển 3 – Nhi khoa chứng trị Sinh Hoàng kỳ (2 tiền), Phòng phong 8 phân
25 1831 Thanh Dương khoa tiệp kính – Quyển thượng – Đầu bộ Biểu hư hiệp phong Phòng phong, Chích Hoàng kỳ
26 Không rõ năm Thanh Ái đường y thoại – Bổ biên thượng quyển Phù chính khí, cố biểu, Chích Hoàng kỳ, Phòng phong, Bạch truật, lượng bằng nhau Trước và sau tiết Đông chí, uống mỗi ngày

1 Hoàng kỳ + 1 Phòng phong + 1/2 Bạch truật

Trong số 26 phương thuốc được thu thập, có 13 bài sử dụng Hoàng Kỳ, Phòng Phong có liều lượng bằng nhau, Bạch Truật gấp đôi hai vị thuốc trên. Cách dùng này bắt dầu từ Đan Khê Tâm Pháp. Lý giải cho cách phối ngũ này

  •  医方考 – Y Phương Khảo của Ngô Côn đời Minh giải thích: “Khoảng giữa da và cơ, là nơi Vệ khí cư ngụ”. 灵枢经 – Linh Khu Kinh  viết: “Hoàng Kỳ ngọt ấm, là thánh dược bổ biểu, kết hợp với Phòng Phong thì công hiệu càng nhanh, nên lấy 2 vị liều lượng bằng nhau. Bạch Truật ích Tỳ, Tỳ chủ cơ nhục, nên lấy Bạch Truật liều lượng gấp đôi”.
  • Lý Đông Viên: “Hoàng kỳ được Phòng phong hỗ trợ thì hiệu quả càng lớn, vì hai vị vừa tương khắc vừa tương sinh. Phòng phong giúp dẫn Hoàng kỳ phát huy tác dụng nhanh.”
  • Trong 《 本草备要 – Bản thảo bị yếu 》: Bạch truật vị ngọt bổ tỳ, ôn trung hòa khí. Ở huyết phận thì bổ huyết, ở khí phận thì bổ khí. Không có mồ hôi thì giúp tán, có mồ hôi thì giúp cầm. Thấp ra theo mồ hôi, thấp hết thì mồ hôi ngừng, khi cầm mồ hôi thường phối với Hoàng kỳ, Bạch thược.

⇒ Với cách dụng dược theo tỷ lệ này, đa phần các tác giả hướng tới Hoàng kỳ làm quân dược, bổ vệ khí. Trọng dụng Bạch truật kiện tỳ táo thấp. Lấy cầm mồ hôi làm công dụng chính. Phù hợp với người biểu hư, tự hãn.

1 Hoàng kỳ + 1 Bạch truật + 1/2 Phòng phong

Một số tác giả khác dùng Hoàng kỳ và Bạch truật liều bằng nhau và gấp đôi Phòng phong. Cách phối hợp này có từ Cứu Nguyên Phương cũng là tỷ lệ thường dùng nhất của Ngọc Bình Phong Tán hiện nay. 《 本草求真 – Bản thảo cầu chân 》đời Thanh: Hoàng kỳ nhập phế bổ khí, nhập biểu để thực vệ là thuốc bổ khí tốt nhất

Hoàng kỳ bổ khí tỳ phế làm quân dược. Bạch truật ích khí kiện tỳ, giúp Hoàng kỳ bồi thổ sinh kim, cố biểu chỉ hãn, làm thần dược. Hai vị kết hợp có thể vừa bổ phế khí, thực cơ biểu, giúp không ra mồ hôi, tà khí khó xâm nhập. Phòng phong là “nhuận dược trị phong”, dùng ít để vừa khử phong tà vừa không làm hại cơ biểu. Phối theo tỷ lệ Hoàng kỳ, Bạch truật gấp đôi Phòng phong nhằm bổ khí, kiện tỳ, cố biểu, thích hợp cho người biểu hư nặng, ra mồ hôi nhiều.

《 通俗伤寒论 – Thông tục Thương hàn luận 》Cũng theo tỷ lệ này nhưng liều lượng cao hơn dùng cho phụ nữ sau sinh bị cảm phong, có triệu chứng sợ gió, không ra mồ hôi, sốt dai dẳng, mạch phù huyễn. Tác giả cho rằng sau sinh vệ khí hư, cơ biểu không đóng kín, phong tà dễ lưu lại nên tăng liều thuốc để bổ khí kiện tỳ, phù chính nâng vệ, đồng thời giảm Phòng phong để không làm hại cơ biểu.

1 Hoàng kỳ + 1 Bạch truật + 1 Phòng phong

《 医宗金鉴 – Y tông kim giám》: “Tà chi sở tấu, kỳ khí tất hư. Trị phong không lo không đuổi được phong mà lo không có gì để ngăn chặn, không sợ phong không đi mà sợ phong sẽ quay trở lại”. Nếu gặp phong tà, phát tán quá mức, tấu lý không đóng kín. Phòng phong giỏi trị phong, thêm Hoàng kỳ cố biểu bên ngoài, có Bạch truật để cố lý bên trong. Phong bị đuổi đi rồi, không quay lại nữa. Chứng tự hãn không dứt cũng là do biểu hư, tấu lý đóng không kín.

Xuân hạ tấu lý mở, dù ra mồ hôi cũng không nên dùng Quế chi, nên dùng Hoàng kỳ. Dùng Hoàng kỳ, Bạch truật, Phong phong liều lượng bằng nhau đặt tên là Hoàng kỳ thang trị chứng xuân hạ phát nhiệt, có mồ hôi, mạch yếu, sợ gió lạnh, dùng Hoàng kỳ, Bạch truật bổ khí, thực biểu, và Phòng phong khu phong tà, nhằm ngăn tà tái nhập.

Bên cạnh công năng điều tri biểu hư, tự hãn, trong cuốn 《 馤塘醫話 – Ái đường y thoại 》Trương Cảnh Đào đề xuất phương pháp phòng bệnh dùng Ngọc bình phong tán liều thấp hơn. Những người thể chất gầy yếu, suy nhược, dễ cảm tà khí, thường hay cảm mạo, mỗi ngày trước và sau Đông chí đều uống Ngọc bình phong tán đề phù chính khí, cố biểu, phòng tà hiệu quả rất tốt.

Ngoài các tỷ lệ chính trên có nhiều tài liệu ghi chép tỷ lệ khác nhưng số lượng không nhiều.

Có thể tóm tắt một chút về tỷ lệ thành phần bài Ngọc bình phong tán:

  • 1 Hoàng kỳ + 1 Phòng phong + 1/2 Bạch truật: trọng tâm chỉ hãn, ra mồ hôi nhiều
  • 1 Hoàng kỳ + 1 Bạch truật + 1/2 Phòng phong: trọng cố biểu, dùng trong chứng biểu hư rõ
  • 1 Hoàng kỳ + 1 Bạch truật + 1 Phòng phong: dùng trong xuân hạ phát nhiệt có mồ hôi, sợ gió lạnh hoặc phòng bệnh

Phương pháp bào chế

Sự khác biệt trong phương pháp bào chế dược liệu của bài Ngọc Bình Phong Tán qua các triều đại chủ yếu nằm ở vị Hoàng kỳ (黄芪). Trong 26 phương thuốc được sưu tập, có 12 phương sử dụng Hoàng kỳ đã qua bào chế, như sao mật ong (蜜炙) hoặc sao khô (炒制).

Các phương pháp bào chế Hoàng kỳ chủ yếu hướng tới công năng cố biểu, phù chính, bổ khí của nó. Theo lý luận bào chế hiện đại, Hoàng kỳ sao mật có tác dụng bổ trung ích khí mạnh hơn, nên trong các bài Ngọc Bình Phong Tán hiện nay cũng dùng loại sao mật.

Cách dùng thuốc

Mặc dù tên bài thuốc là Ngọc bình phong tán thuộc dạng bột nhưng trong nghiên cứu thống kê đa phần các ghi chép đều là sắc uống dạng thang hoặc tán bột pha uống. Khi sắc có ghi chèo còn thêm gừng và táo làm dẫn dược.

Việc sử dụng sinh khương (gừng tươi) và đại táo bắt nguồn từ 《 傷寒論 – Thương Hàn Luận 》của Trương Trọng Cảnh. Trong sách, Trọng Cảnh thường dùng gừng và táo với liều lượng lớn, coi như thuốc chính. Tuy nhiên, các danh y đời sau chỉ dùng với liều lượng nhỏ, chủ yếu làm thuốc dẫn. Trong các phương như Ngọc Bình Phong Tán, phần lớn đều ghi chú “thêm gừng và táo đỏ cùng sắc với thuốc”, liều lượng tính bằng lát và quả.

Lý giải cho cách dùng này cùng lật lại một chút về các ghi chép về đại táo và sinh khương

  • Trong Vệ sinh bảo giám: gừng có vị cay ôn, táo có vị nhọt. Vị là nguồn của vệ khí, tỳ là gốc của vinh. Vị ngọt và cay hòa hợp giúp tỳ vì mạnh, vinh vệ thông, dùng khương táo để làm dẫn dược.
  • Đường Tông Hải: Khương táo điều hòa vinh vệ, giúp dẫn khí của các vị thuốc ra bì phu.
  • Bản thảo phát huy: Ngọt là vị của tỳ, cái ngọt của đại táo giúp tỳ thổ mạnh mà khắc được thủy

→ Gừng vị cay, tính ấm, giúp thông biểu, ôn Vệ và chỉ hãn (ngừng ra mồ hôi);
→ Táo vị ngọt, vào Trung tiêu, bổ Tỳ khí, phối hợp làm dẫn dược, giúp tăng hiệu quả “cố biểu – bổ lý” (củng cố bên ngoài và bên trong) của Ngọc Bình Phong Tán.Tuy nhiên trong Y môn pháp luât của Dụ Gia Ngôn phân tích: nếu người bị biểu hư, dễ ra mồ hôi, không nên dùng gừng vì tính phát tán, Hoàng kỳ vốn có tác dụng bổ khí, cố biểu rất mạnh, không cần gừng táo hỗ trợ. Sinh khương tuy có thể thông biểu, ôn vệ nhưng do tính tán nên không có lợi cho người có tấu lý lỏng lẻo, biểu hư, tự hãn. Đại táo ngọt kiện tỳ, tăng cường tác dụng bổ tỳ phế khí của Ngọc Bình Phong Tán. Vì vậy có thể dùng Đại táo, không cần dùng Sinh khương. Điều này cũng khá phù hợp với cách ứng dụng hiện đại của bài thuốc.

Công năng chủ trị của bài thuốc Ngọc bình phong tán

Dựa trên những tài liệu ghi chép qua nhiều thế hệ có thể tổng kết công dụng chính của bài thuốc Ích khí, cố biểu, chỉ hãn, phòng cảm

Chủ trị: Biểu hư bất cố, tự hãn bất chỉ, ngoại cảm phong tà, ố phong, phòng cảm.

  • Vệ khí khuy hư dễ cảm mạo: Vệ khí hư, vệ biểu bất cố, tấu lý lỏng lẻo dễ cảm thụ phong hàn tà gây ra sợ gió, hắt hơi, nghẹt mũi, ngứa mũi, ngứa mắt, hắt hơi liên tục (phong tà gần giống với dị ứng trong tây y, viêm mũi dị ứng, ho thay đổi thời tiết). Liên tục bị cảm lạnh.
  • Biểu hư tự hãn: vệ khí hư, vệ biểu bất cố, tấu lý lỏng lẻo không thể giữ được doanh âm bên trong, doanh âm không giữ được (doanh âm bất túc) chảy ra ngoài, tự hãn xuất hiện. Tiền đề của tự hãn là vệ khí hư. Sắc mặt người bệnh thường trắng bất thường (trắng như muối thô) trắng không sáng (không có quang trạch) hoặc trắng nhợt. Khí hư nên lực đẩy máu tuần hoàn yếu, mạch phù nhược, lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng mỏng

Một số nghiên cứu mới về bài thuốc Ngọc bình phong tán

Ứng dụng y học hiện đại: Viêm mũi dị ứng, Viêm cầu thận mạn tính, tăng cường miễn dịch, giãn phế quản, bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, mề đay mạn tính thể phế tỳ khí hư do COVID – 19…. 

  • Viêm cầu thận mạn tính: 
  • Hen suyễn dị ứng (3): Cimifugin là thành phần hoạt chất chính trong Ngọc bình phong tán, có thể giảm hen suyễn dị ứng và giảm tỷ lệ tái phát trong lâm sàng. Nó ức chế viêm đường thở, giảm đáp ứng của đường thở quá mức và phục hồi sự biểu hiện của các protein hàng rào biểu mô nhằm ức chế hen suyễn tái phát. Hiện nay bài thuốc được gia giảm thêm và ứng dụng điều trị các trường hợp sau đợt cấp hen suyễn.
  • Viêm mũi dị ứng (7): Đây là một trong những bệnh lý được ứng dụng nhiều nhất của Ngọc bình phong tán hiện nay. Bài thuốc giúp điều chỉnh chức năng miễn dịch, giảm viêm, cải thiện miễn dịch. Châm cứu kết hợp dùng thuốc cho hiệu quả vượt trội trong việc giảm triệu chứng, cải thiện chất lượng cuộc sống và giảm nồng độ IgE huyết thanh ở bệnh nhân viêm mũi dị ứng thể phế khí hư và thể phong hàn. Đối với viêm mũi dị ứng trẻ em, bài thuốc cho thấy độ an toàn tương đối tốt và tỷ lệ tái phát thấp hơn so với một số liệu pháp tây y.
  • Viêm da dị ứng: Ngọc bình phong tán cải thiện đáng kể các triệu chứng viêm da dị ứng, giảm điểm SCORAD và giẻm viêm mô da ở mô hình chuột viêm da dị ứng.
  • Ung thư biểu mô tế bào gan: Bài thuốc giúp tăng cường miễn dịch, cải thiện vi môi trường ức chế miễn dịch của ung thư biểu mô tế bào gan bằng cách thúc đẩy sự trưởng thành của tế bào đuôi gai thông qua việc ức con đường tín hiệu JAK2-STAT3 hoạt hóa.
  • Đảo ngược trạng thái kháng thuốc cisplatin trong các tế bào ung thư phổi nhờ làm tăng tích lũy cisplatin nội bào, đồng thời điều chỉnh giảm hoạt động và biểu hiện của các chất vận chuyển cassette liên kết ATP và GSTs.
  • Phòng ngừa COVID-19: Nhờ khả năng tăng cường miễn dịch mà Ngọc bình phong tán được đưa vào phác đồ dự phòng bệnh tật trong đại dịch COVID-19
  • Thúc đẩy tăng trưởng và hoàn thiện chức năng miễn dịch.

Chống chỉ định – Thận trọng

Mặc dù công năng chủ trị cũng như ứng dụng lâm sàng của bài thuốc Ngọc bình phong tán rất đa dạng và khá phổ biến tuy nhiên không phải ai cũng có thể sử dụng bài thuốc này.

Ngọc bình phong tán không phù hợp với:

  • Người bị âm hư phát nhiệt, đạo hãn, cốt chưng.
  • Không phải tất cả các trường hợp tự hãn đều là do vệ khí hư mà có thể do đàm thấp hoặc can khí ứ trệ kết hợp thận khí hư gây ra mồ hôi nhiều ở nửa trên cơ thể. Đối với những trường hợp này cần biện chứng luận trị kỹ càng trước khi sử dụng thuốc.
  • Trong thời gian sử dụng thuốc người bệnh không nên ăn đồ ăn nhiều dầu mỡ

Tài liệu tham khảo:

1. 玉屏风散古籍考证与分析 – Quang Minh Trung Y — Tập 39, Số 16, Tháng 8 năm 2024

2. 玉屏风散治疗慢性肾小球肾炎探析 – Tạp chí Y học cổ truyền Trung Quốc 2023 – Tập 12, số 4, tháng 4 năm 2023

3. Cimifugin suppresses type 2 airway inflammation by binding to SPR and regulating its protein expression in a non-enzymatic manner – PubMed

4. Effects of Yu-Ping-Feng polysaccharides on animal growth performance and immune function: a review – PubMed

5. Gu-Ben-Fang-Xiao decoction modulates lipid metabolism by activating the AMPK pathway in asthma remission – PubMed

6. Jia-Wei-Yu-Ping-Feng-San Attenuates Group 2 Innate Lymphoid Cell-Mediated Airway Inflammation in Allergic Asthma – PubMed

7. Mechanisms and molecular targets of the Yu-Ping-Feng powder for allergic rhinitis, based on network pharmacology – PubMed

8. Medication Rule Analysis of the Diagnosis and Treatment Programs of Chinese Medicine for the Prevention and Treatment of COVID-19 in China – PubMed

9. Multidimensional assessment of patient-reported outcomes and TCM syndrome improvement in allergic rhinitis: A retrospective cohort study of acupuncture combined with Yu Ping Feng San – PubMed

10. The Mechanisms of Yu Ping Feng San in Tracking the Cisplatin-Resistance by Regulating ATP-Binding Cassette Transporter and Glutathione S-Transferase in Lung Cancer Cells – PubMed

11. Yu ping feng san for pediatric allergic rhinitis: A systematic review and meta-analysis of randomized controlled trials – PubMed

12. Yu ping feng san for pediatric allergic rhinitis: A systematic review and meta-analysis of randomized controlled trials: Erratum – PubMed

13. Yu-Ping-Feng-San alleviates inflammation in atopic dermatitis mice by TLR4/MyD88/NF-κB pathway – PubMed

14. Yu-Ping-Feng-San improve the immunosuppression of microenvironment in hepatocellular carcinoma by promoting the maturation of DCs through the JAK2-STAT3 pathway – Pubmed

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *