Phòng phong là vị thuốc thường dùng trong lâm sàng, có khả năng khu phong rất mạnh, thường xuyên xuất hiện trong các bài thuốc cổ điển như Phòng phong Thông thánh hoàn, Ngọc bình phong tán. Những năm gần đây, nguồn tài nguyên Phòng phong hoang dã dần cạn kiệt, kỹ thuật trồng trọt cũng ngày càng hoàn thiện, nhưng hình thái của sản phẩm trồng trọt khác biệt đáng kể so với sản phẩm hoang dã. Phòng phong vẫn đang đối mặt với tình trạng nguồn cung bị tắc nghẽn do cầu vượt quá cung. Giá Phòng phong cũng thường xuyên bị thương lái thổi giá lên gấp nhiều lần và xuất hiện tình trạng làm giả hoặc Phòng phong kém chất lượng tràn ngập thị trường. Cùng DUPOMA tìm hiểu về cách nhận biết Phong phong chất lượng qua bài viết dưới đây.
Công dụng của Phòng phong (防风)
Phòng phong có nguồn gốc từ rễ khô của cây Phòng phong (Saposhnikovia divaricata (Turcz.) Schischk.) thuộc họ Hoa tán (Apiaceae). Rễ của những cây chưa ra hoa được thu hoạch vào mùa xuân và mùa thu, loại bỏ rễ xơ và đất, sau đó phơi khô dưới ánh nắng mặt trời. Thu hoạch mùa xuân có chất lượng tốt nhất.
Giống như tên gọi, công dụng chính của Phòng phong là phòng tránh phong tà (tránh gió). Trên lâm sàng Phòng phong có tác dụng khu phong giải biểu (trừ phong tà, làm ra mồ hôi), thắng thấp chỉ thống (trừ ẩm, giảm đau), và chỉ kính (chống co giật), phát ban ngứa…
- Giải biểu khu phong là sở trường: Phòng phong có sở trường là trừ phong tà (khu phong). Nó vừa có thể tán phong hàn, lại vừa có thể phát tán phong nhiệt. Tác dụng này tương tự như Kinh giới (荆芥), do đó hai vị thuốc này thường được phối hợp sử dụng.
- Trừ phong thấp và giảm đau: Phòng phong có khả năng trừ phong thấp và giảm đau (chỉ thống). Thường phối hợp với Khương hoạt (羌活), Phòng kỷ (防己) để điều trị các chứng phong thấp tý thống (đau nhức do phong thấp).
- Trị uốn ván (phá thương phong): Phòng phong trị uốn ván, có tác dụng trừ phong và chống co giật (chỉ kính), nhưng thường được phối hợp với các vị thuốc như Thiên nam tinh (天南星), Thiên ma (天麻), Bạch phụ tử (白附子).
- Chỉ huyết và Chỉ tả (cầm máu và cầm tiêu chảy): Ngoài ra, vị thuốc này còn có tác dụng cầm máu và cầm tiêu chảy.
- Nếu dùng để trị đau bụng tiêu chảy (phúc thống tiết tả), thường phối hợp với Bạch thược (白芍), Bạch truật (白朮), Trần bì (陈皮).
- Nếu dùng để trị đại tiện ra máu (tiện huyết) hay băng lậu (rong kinh, băng huyết), thường được sao cháy để dùng.
Ứng dụng lâm sàng hiện nay, nó thường được sử dụng để điều trị cảm mạo, đau đầu, phong thấp tý thống (đau nhức do phong thấp), v.v.
Loại Phòng phong có tính trạng phù hợp với mô tả trong Dược điển Trung Quốc bản năm 2020 là Phòng phong hoang dã. Do Phòng phong có hiệu quả lâm sàng tốt và nhu cầu lớn, dẫn đến nguồn tài nguyên Phòng phong hoang dã đang bị khan hiếm. Hiện nay, loại lưu thông trên thị trường chủ yếu là sản phẩm nuôi trồng, và cũng thường thấy Phòng phong đã trổ hoa bị lẫn trong Phòng phong hoang dã. Tuy nhiên, Dược điển quy định Phòng phong đã trổ hoa không được dùng làm thuốc, và lâm sàng cũng không đánh giá cao Phòng phong nuôi trồng.
Theo nghiên cứu của Học viện Trung Dược của Đại Học Thẩm Dương thì Phòng phong hoang dã có hàm lượng tinh dầu cao nhất, tiếp theo là nuôi trồng, thấp nhất là trổ hoa. Tinh dầu Phòng phong có tác dụng giảm đau, kháng viêm tốt. Điều này gợi ý dược hiệu của loại hoang dã có thể tốt hơn loại nuôi trồng.
Nhận biết Phòng phong
Trong nhiều tài liệu về dược liệu, các loại “Phòng phong” được ghi chép với các tiêu chuẩn khác nhau. Ngoại trừ Quảng Phòng phong là phần trên mặt đất của cây thuộc họ Hoa môi, các tiêu chuẩn địa phương khác đều sử dụng rễ và thân rễ của cây thuộc họ Hoa tán, được xem là dược liệu thay thế thông thường của Phòng phong tại địa phương đó.
Dược điển Trung Quốc bản năm 1963 bắt đầu ghi chép về Phòng phong và làm rõ đều là sản phẩm hoang dã. Mặc dù các bản Dược điển từ năm 1977 đến 2020 đã loại bỏ cụm từ “đều là hoang dã”, nhưng mô tả hình thái vẫn là các đặc trưng của sản phẩm hoang dã.
Trong đó, quy định rõ Phòng phong được thu hoạch vào hai mùa xuân và thu, là rễ chưa ra cuống hoa.

Theo quan sát của người xưa, Phòng phong có hai loại là “Công” (đực) và “Mẫu” (cái). Cây có phần trên mặt đất ra hoa kết quả được gọi là Mẫu Phòng phong, do rễ của nó có nhiều xơ gỗ, chất cứng, nên còn gọi là Ngạnh Phòng phong (Phòng phong cứng); cây có phần trên mặt đất chỉ ra lá, không ra hoa, không kết quả được gọi là Công Phòng phong, rễ của nó nhiều nước, chất mềm, có lõi hình hoa cúc (còn gọi là “cúc hoa tâm”), nên còn gọi là Nhuyễn Phòng phong (Phòng phong mềm). Dược liệu loại “Công Phòng phong” được xem là tốt hơn.
Tuy nhiên trên thực tế, cây Phòng phong là cây lâu năm, có hoa lưỡng tính, không có sự phân biệt công/mẫu. Việc Phòng phong có ra hoa hay không liên quan đến thời gian sinh trưởng của nó. Phòng phong hoang dã thường mất 6-7 năm mới ra hoa kết hạt, trong khi Phòng phong trồng trọt chỉ mất 3-4 năm. Phòng phong dùng làm thuốc đều được thu hoạch trước khi ra hoa. Do cây trên mặt đất chưa trổ bông và ra hoa nên lõi rễ mềm hơn; loại này được gọi là Công phòng phong. Phòng phong hoang dã đã trổ bông, ra hoa và kết trái. Loại này lớn hơn và rỗng hơn so với giống không trổ bông, lõi rễ cứng hơn và hóa gỗ hơn; nó được gọi là Mẫu phòng phong.
Dược điển quy định bộ phận dùng làm thuốc của Phòng phong là rễ, nhưng mô tả hình thái lại có chi tiết “phần đầu rễ có các vòng vân rõ ràng, dày đặc, thường gọi là ‘đầu giun đất’ (củ giun), trên các vòng vân còn sót lại các gốc lá có hình dạng lông màu nâu sẫm” – đây lại là đặc trưng của thân rễ. Vì vậy, bộ phận thực tế được sử dụng làm thuốc của Phòng phong là rễ và thân rễ.
Vùng sản xuất
Sách 《中药材产销 – Trung dược tài sản tiêu》ghi chép: Quan Phòng phong (Phòng phong khu Quan Ngoại – Đông Bắc) còn gọi là Đông Phòng phong, chủ yếu được trồng ở Hắc Long Giang, phía Tây Cát Lâm và phía Đông Nội Mông. Khẩu Phòng phong (Phòng phong khu Khẩu Ngoại – phía Bắc Vạn Lý Trường Thành) còn gọi là Tây Phòng phong, chủ yếu sản xuất ở miền Trung Nội Mông và phía Bắc Hà Bắc.
Phòng phong hoang dã từng phân bố rộng rãi ở các tỉnh phía Bắc Trung Quốc. Qua các đời, Phòng phong tốt nhất xuất xứ từ các tỉnh Hoa Bắc. Sau triều Thanh, vùng sản xuất chính dịch chuyển lên phía Bắc, đến khu vực Đông Bắc và Nội Mông, hình thành “Khẩu Phòng phong” và “Quan Phòng phong”. Các tỉnh như Giang Tô, Hồ Bắc đã không còn sản xuất Phòng phong nữa, nguồn tài nguyên ở Sơn Đông, Thiểm Tây cũng suy giảm.
Hiện nay, Phòng phong chủ yếu được sản xuất ở Hắc Long Giang, Cát Lâm, Liêu Ninh, Nội Mông, Hà Bắc và các tỉnh khác. Nhiều khu vực trên cả nước đã trồng trọt, nhưng chủ yếu tập trung ở ba tỉnh Đông Bắc, trong đó Hắc Long Giang là nhiều nhất và chất lượng tốt hơn.
Phòng phong có nhiều loại, có một số đặc điểm nhận diện Phòng phong theo dược điển

Đầu chổi: Phần đầu rễ Phòng phong thường có các gốc lá sót lại, màu nâu hoặc nâu sẫm, tập trung thành búi dài, hình dáng như cái chổi.

Đầu giun đất: Sau khi các gốc lá sót lại ở đầu rễ Phòng phong rụng đi, sẽ để lộ các vòng vân dày đặc, trông giống đầu giun đất, thường gọi là “Đầu giun đất”.

Vòng mắt phượng: Mặt cắt ngang của dược liệu Phòng phong có phần vỏ màu vàng, và một vòng mô phân sinh màu nâu, thường gọi là “Vòng mắt Phượng”. Vòng mắt Phượng nhấn mạnh VÒNG (khuyên) chứ không phải MẮT (nhãn), chỉ vòng tròn được tạo thành bởi phần vỏ và mô phân sinh.
Hiện nay, Phòng phong trên thị trường được chia thành sản phẩm hoang dã và sản phẩm trồng trọt. Do nguồn tài nguyên hoang dã dần cạn kiệt, giá cả ngày càng tăng cao, có thể dao động từ 2-4 triệu/kg. Trong khi đó, Phòng phong trồng trọt không phù hợp với mô tả hình thái trong Dược điển, ở một số nơi thường bị cơ quan quản lý dược phẩm địa phương coi là hàng giả.
Phòng phong hoang dã (tự nhiên)

Vùng sản xuất Phòng phong hoang dã chủ yếu ở Nội Mông, Đông Bắc và ngoại Mông Cổ. Hình thái của Phòng phong ở các vùng sản xuất khác nhau có sự khác biệt, dược liệu dễ phân biệt, nhưng khi cắt lát thì khó phân biệt hơn.

Quan Phòng phong: Bề mặt màu xám nâu hoặc nâu sẫm, thô ráp, có vân dọc, nhiều lỗ vỏ nổi lên theo chiều ngang và vết rễ phụ hình chấm nhỏ. Đầu rễ có các vòng vân rõ ràng, dày đặc (đầu giun đất), một số vòng vân còn sót lại gốc lá hình lông màu nâu sẫm. Dược liệu nhẹ, chất xốp, ít phân nhánh, dễ bẻ gãy. Mặt cắt không bằng phẳng, phần vỏ màu vàng nâu đến nâu, có vết nứt, phần gỗ màu vàng.
Dạng lát cắt dày hình tròn hoặc bầu dục. Lớp vỏ ngoài màu xám nâu hoặc nâu sẫm, có vân dọc, đôi khi thấy các lỗ vỏ nổi lên theo chiều ngang, các vòng vân dày đặc hoặc gốc lá hình lông sót lại. Mặt cắt phần vỏ màu vàng nâu đến nâu, có vết nứt, phần gỗ màu vàng, có vân tỏa tròn. Có mùi đặc trưng, vị hơi ngọt.

Qua quan sát các mẫu thu thập được, có thể thấy màu sắc phần vỏ trên mặt cắt của Phòng phong không đồng nhất. Mặt cắt của Phòng phong khô có màu nhạt hơn. Khi làm ẩm và cắt lát, các ống tinh dầu trong Phòng phong bị cắt đứt, chất dầu bên trong sẽ khuếch tán ra bề mặt cắt, và dưới tác dụng của độ ẩm, oxy và nhiệt độ, màu sắc sẽ trở nên sẫm hơn. Đây là lý do tại sao màu sắc phần vỏ trên mặt cắt của Phòng phong bị đậm màu.
Phòng phong nuôi trồng
Phòng phong bắt đầu được trồng trọt nhân tạo từ những năm 1970. Hiện nay, kỹ thuật trồng Phòng phong đã khá hoàn thiện, được canh tác ở nhiều nơi như Hà Bắc, Thiểm Tây, Sơn Tây, Nội Mông, Đông Bắc và các khu vực khác. Phòng phong được trồng ở các địa phương khác nhau không có sự khác biệt rõ rệt về mặt hình thái
Việc trồng Phòng phong có hai phương thức chính: Gieo hạt và trồng bằng đoạn rễ.

So sánh 3 loại Phòng phong chính
| Tiêu chí | Phòng phong Hoang dã | Phòng phong gieo hạt | Phòng phong trồng bằng đoạn rễ |
| Nguồn gốc | Mọc tự nhiên trong môi trường hoang dã. | Trồng bằng hạt giống, sinh trưởng 1-4 năm, thu hoạch vào mùa thu. | Trồng bằng cách cắt đoạn rễ mẹ (đã bỏ lô đầu). |
| Hình thái (Tổng thể) | Thường nhỏ, gầy, và cong hơn. | Thường thẳng, ít rễ phụ và đều hơn, kích thước vừa phải. | Có phần rễ mẹ to (đoạn cũ) và rễ mới mảnh mọc ra, ranh giới rõ ràng. |
| Đầu rễ (Lô đầu) | Vân vòng dày đặc, rõ ràng và nổi bật. Có thể còn sót lại gốc lá hình lông màu nâu sẫm. | Không có vân vòng rõ rệt. Còn sót lại phần gốc lá hình lông. | Không có vân vòng ngang rõ rệt. Còn sót lại phần gốc lá dạng mảnh/sợi. |
| Bề mặt | Thường thô ráp, màu nâu xám/nâu sẫm. | Màu vàng nâu hoặc nâu nhạt khá mịn màng, có nếp nhăn dọc nông. Có sẹo rễ phụ | Màu trắng vàng, khá mịn màng, có nếp nhăn dọc nông. |
| Chất liệu | Rắn chắc, thể nhẹ (theo Dược điển), dễ bẻ gãy, mặt cắt không bằng phẳng. | Rắn chắc, thể nặng hơn loại hoang dã (theo mô tả), dễ bẻ gãy, mặt cắt khá phẳng. | Chất liệu tổng thể xốp nhẹ hơn. Rễ mẹ thường có khe nứt ở mặt cắt. |
| Mùi vị | Mùi đặc trưng, đậm (cay, hơi ngọt), nồng hơn. | Mùi thơm nhẹ hơn, vị có thể nhạt hơn. | Mùi vị nhạt hơn. |
| Hoạt chất chính (Dược tính) | Hàm lượng Tinh dầu và Chromone (hoạt chất khu phong) thường cao hơn. | Hàm lượng hoạt chất thường thấp hơn loại hoang dã. | Hàm lượng hoạt chất thường thấp hơn loại hoang dã. |
| Khả năng trổ hoa | Tự nhiên sinh trưởng, có nguy cơ trổ hoa. | Cây con sinh trưởng từ 1-4 năm, dễ kiểm soát việc trổ hoa. | Nếu đoạn rễ mẹ còn sót lại lô đầu (đầu rễ), cây rất dễ trổ hoa ngay trong năm đầu trồng. |
| Tính ứng dụng | Chất lượng tốt nhất, được Dược điển công nhận (về tính trạng), được ưa chuộng trên lâm sàng. | Thường được sử dụng rộng rãi trên thị trường. | Dễ bị nhầm lẫn và có thể chứa phần rễ đã trổ hoa (không dùng làm thuốc). |
Một số hình thái Phong phong chất lượng thấp trên thị trường
Phòng phong nuôi trồng giả Phòng phong hoang dã

Phòng phong nhuộm màu (Nhiễm sắc Phòng phong): Phòng phong trồng trọt được xử lý nhuộm màu bằng Caramel (màu thực phẩm) rồi cắt lát để giả làm Phòng phong hoang dã. Phòng phong nhuộm màu chủ yếu là Phòng phong gieo hạt, có độ dày củ gần giống với loại hoang dã. Bề mặt của nó có màu đen không tự nhiên, thường chỗ rãnh màu sẫm hơn chỗ gờ. Mặt cắt dày đặc, không có vết nứt.
Phòng phong bị đông lạnh (Đống Phòng phong):


Phòng phong trồng trọt sau khi thu hoạch không được sấy khô kịp thời, để trong môi trường nhiệt độ thấp và bị đông lạnh. Nước trong mô Phòng phong đóng băng và nở ra, sau khi nước bay hơi, phần bị đóng băng nở ra trước đó sẽ hình thành các vết nứt. Bề mặt ngoài của Phòng phong bị đông lạnh tương tự như Phòng phong trồng trọt thông thường, điểm khác biệt chính là mặt cắt phần vỏ và phần gỗ đều có vết nứt, và các vết nứt này rất đều đặn.
Phòng phong nhiều đầu chổi

“Đầu chổi” là các gốc lá sót lại, thuộc bộ phận không dùng làm thuốc, nên được loại bỏ.
Một số loại Phòng phong kém chất lượng khác

- Hàng hun lưu huỳnh (Huân lưu): Phòng phong sau khi hun lưu huỳnh có màu sắc tươi sáng hơn, loại không hun có màu tối hơn.
- Phong phong bị “chảy dầu”: Phòng phong trồng trọt có hàm lượng đường cao hơn, dễ xảy ra hiện tượng “chảy dầu” (thành phần tinh dầu hoặc đường bị thoát ra ngoài).
- Bị sâu mọt: Phòng phong, dù là hoang dã hay trồng trọt, đều chứa đường và tinh bột, nếu bảo quản không đúng cách dễ bị sâu mọt.
- Lát đen, lát mục (Hắc phiến, Hủ phiến): Lát đen và lát mục là do Phòng phong bị bệnh hoặc sâu bệnh trong quá trình sinh trưởng.
- Thủy phong phong được ghi chép trong “Tiêu chuẩn Y học Cổ truyền tỉnh Hà Nam” ấn bản năm 1991. Đây là rễ khô của Saposhnikovia divaricata, một loại cây thuộc họ Hoa tán (Apiaceae).
- Tiểu phòng phong được liệt kê trong “Tiêu chuẩn Y học cổ truyền Trung Quốc của tỉnh Cam Túc” (phiên bản năm 2009) và là rễ khô của cây Caraway chinensis, một loại cây thuộc họ Hoa tán.
Tài liệu tham khảo:
1. 防风气味与化学成分相关性研究 – Tạp chí Chinese Traditional Patent Medicine 1/2024 tập 46