Đau bụng kinh có thể là bất cứ triệu chứng nào, từ đau quặn âm ỉ đến đau dữ dội, không thể kiểm soát và không thể dễ dàng giảm bớt. Đau bụng kinh thường được chia thành hai loại dựa trên sinh lý bệnh.
1. Đau bụng kinh nguyên phát
Đau bụng kinh nguyên phát, còn được định nghĩa là đau bụng kinh chức năng, thường xảy ra thường xuyên hơn đau bụng kinh thứ phát ở thanh thiếu niên và người trưởng thành trẻ tuổi và có liên quan đến chu kỳ rụng trứng bình thường và không có bệnh lý vùng chậu. Nó có liên quan đến chu kỳ không rụng trứng và thường xảy ra 6 tháng sau khi bắt đầu kỳ hành kinh đầu tiên. Cơn đau liên quan đến chứng đau bụng kinh nguyên phát không thay đổi đặc điểm của nó từ chu kỳ này sang chu kỳ tiếp theo.
Cơ chế chính của PD là sự giải phóng quá mức của các chất gây viêm dẫn đến co thắt và thiếu máu cục bộ tử cung.

- Sản xuất Prostaglandin (PG) và Leukotriene (LT) quá mức:
- Sau khi rụng trứng và trước kỳ kinh, sự sụt giảm Progesterone kích thích giải phóng một lượng lớn axit arachidonic.
- Axit arachidonic thúc đẩy hoạt hóa prostaglandin và leukotrien trong tử cung. Progesterone ức chế cơ chế này trong khi estrogen có tác dụng kích thích.
- Sản xuất estrogen tăng lên sau khi ngừng progesterone sẽ làm tăng sản xuất prostaglandin (PG) trong nội mạc tử cung thông qua hoạt hóa cycloxigenase-2 (COX-2) và yếu tố hạt nhân kappa B (NF-kB), một yếu tố phiên mã hạt nhân chịu trách nhiệm kích hoạt các gen liên quan đến chuỗi phản ứng viêm NF-kB kích hoạt phiên mã gen COX-2, chịu trách nhiệm tổng hợp chuỗi phản ứng PG lớn, gây ra tình trạng viêm trong nội mạc tử cung.
- Phản ứng viêm mạnh này được cho là gây ra các triệu chứng đau bụng kinh, chẳng hạn như buồn nôn, nôn, đầy hơi, đau đầu và ảnh hưởng đến cường độ đau bụng kinh và chảy máu. Tình trạng viêm lặp đi lặp lại này ở nội mạc tử cung cũng có thể kích thích phiên mã gen aromatase ở những bệnh nhân nhạy cảm (không có ở phụ nữ không bị đau bụng kinh), từ đó gây ra sự gia tăng estrogen tại chỗ, duy trì tình trạng viêm.
- Co thắt và thiếu máu cục bộ
- Prostaglandin tham gia vào quá trình điều hòa rụng trứng và sinh lý nội mạc tử cung, bao gồm sự tăng sinh nội mạc tử cung và những thay đổi nội mạc tử cung trong thời kỳ kinh nguyệt.
- Nồng độ prostaglandin cao gây tăng trương lực cơ tử cung, co bóp tử cung và do đó gây đau. PG, đặc biệt là prostaglandin F 2α(PGF 2α), và leukotrienes (LT) bắt đầu tích tụ trong nội mạc tử cung, sau khi nồng độ progesterone giảm vào giai đoạn hoàng thể muộn, và nồng độ của chúng sẽ tỷ lệ thuận với cường độ đau bụng kinh và đau; người ta thấy chúng cao hơn trong tử cung của phụ nữ bị đau bụng kinh so với phụ nữ không bị (hoặc ít bị) đau bụng kinh.
- LT là chất co mạch mạnh và chất trung gian gây viêm, chúng ít được nghiên cứu hơn nhưng được công nhận là có liên quan đến bệnh sinh lý của chứng đau bụng kinh nặng. Người ta thấy chúng cao hơn trong mô tử cung của những phụ nữ phàn nàn về đau bụng kinh và đau bụng kinh nặng.
- Vasopressin cũng là một tác nhân trong bệnh sinh lý của PD, vì nó làm tăng co bóp tử cung, gây thiếu máu cục bộ. Khi nồng độ vasopressin tăng mà không có sự gia tăng song song của nồng độ oxytocin, điều này sẽ dẫn đến thay đổi co bóp tử cung với tình trạng thiếu oxy tử cung và thiếu máu cục bộ sau đó đồng thời với đau bụng kinh.
- Kích thích sợi thần kinh đau
- Các sợi thần kinh đau cũng bị kích thích bởi leukotrienes; những sợi này trong tử cung kích hoạt các đường dẫn truyền cảm giác đau đến hệ thần kinh trung ương.
Một số nghiên cứu cho thấy yếu tố di truyền cũng ảnh hướng đến đau bụng kinh. Nghiên cứu trên cặp song sinh cho thấy mối tương quan mạnh mẽ hơn về đau mạn tính ở cặp song sinh cùng trứng so với khác trứng.
2. Đau bụng kinh thứ phát
Đau bụng kinh thứ phát là tình trạng đau do các bệnh lý đã được xác định đặc biệt là bệnh lý vùng chậu
- Lạc nội mạc tử cung
- Nhiễm trùng, viêm vùng chậu
- Hẹp cổ tử cung
- Polyp tử cung
- U xơ tử cung
- Các dị tật bẩm sinh, dị tật ống Muller
- U nang buồng trứng
Đau vùng chậu mạn tính là biểu hiện lâm sàng chính. Cơn đau ngày càng nặng hơn, kéo dài ít nhất 6 tháng, và thường đi kèm với kinh nguyệt không đều, lượng máu kinh nhiều.
Đau bụng kinh mới khởi phát, kèm theo căng tức vùng chậu và tiết dịch âm đạo bất thường, nên gợi ý một nguyên nhân do nhiễm trùng.
Lạc nội mạc tử cung là nguyên nhân hàng đầu gây đau bụng kinh thứ phát, liên quan đến các yếu tố di truyền, môi trường và thay đổi biểu sinh. Cơ chế bệnh sinh của lạc nội mạc tử cung rất phức tạp và liên quan đến nhiều yếu tố và quá trình diễn ra đồng thời. Có nhiều tương tác giữa hệ miễn dịch, hormone, gen, tế bào gốc và tế bào tại chỗ – tất cả đều ảnh hưởng đến sự phát triển và tiến triển của lạc nội mạc tử cung. Trong những năm gần đây, nhiều lý thuyết đã được nghiên cứu, nhưng không có lý thuyết nào có thể giải thích tất cả các khía cạnh của lạc nội mạc tử cung.
3. So sánh đau bụng kinh nguyên phát và thứ phát
Đau bụng kinh nguyên phát là đau bụng kinh không do bệnh lý thực thể, và đau bụng kinh thứ phát là đau bụng kinh liên quan đến một bệnh lý có thể xác định được. Các nguyên nhân phổ biến của đau bụng kinh thứ phát bao gồm lạc nội mạc tử cung, u xơ tử cung, lạc nội mạc tử cung, polyp nội mạc tử cung, bệnh viêm vùng chậu và sử dụng vòng tránh thai.
| Đau bụng kinh nguyên phát | Đau bụng kinh thứ phát |
| Bắt đầu ngay sau khi có kinh nguyệt | Thời điểm khởi phát có thể xảy ra bất cứ lúc nào sau khi có kinh nguyệt (thường sau 25 tuổi) |
| Đau vùng chậu, bụng dưới, thường liên quan đến thời điểm bắt đầu hành kinh và kéo dài khoảng 8-72h | Có sự thay đổi thời gian bắt đầu đau trong chu kỳ kinh nguyệt hoặc cường độ đau |
| Có thể xuất hiện đau lựng, đùi, đau đầu, tiêu chảy, buồn nôn | Có thể có các triệu chứng phụ khoa khác (như đau khi giao hợp, rong kinh) |
| Không có bất thường khi khám | Bất thường vùng chậu khi khám sức khỏe |
4. Phân độ mức độ đau bụng kinh
Thang đo Andersch và Milsom liên hệ cường độ đau với sự hiện diện của các triệu chứng toàn thân, hạn chế hoạt động hàng ngày và việc có sử dụng thuốc giảm đau hay không.
| Cấp độ | Khả năng làm việc | Triệu chứng toàn thân | Thuốc chống viêm giảm đau |
| Cấp độ 0: Không đau bụng kinh, không ảnh hưởng cuộc sống. sinh hoạt | Toàn vẹn | Không có triệu chứng | Không cần |
| Cấp độ 1: Đau bụng kinh nhẹ | Ít khi ảnh hưởng đến hoạt động hàng ngày | Không có triêu chứng | Ít khi cần |
| Câp độ 2: Đau bụng kinh vừa | Hạn chế vừa phải | Ít triệu chứng | Thỉnh thoảng cần dùng |
| Cấp độ 3: Đau bụng kinh nặng, dữ dội | Ảnh hưởng nghiêm trọng | Triệu chứng rõ ràng | Hiệu quả kém |
Cùng với thang đo tương tự trực quan, thang đo triệu chứng kinh nguyệt Cox cũng có thể được sử dụng để đánh giá tần suất và mức độ nghiêm trọng của các triệu chứng đau bụng kinh. Thang đo này được báo cáo là có độ tin cậy, độ giá trị và độ nhạy cao

Thang điểm được đánh giá dựa trên tổng điểm tần suất (RSS-Cox 1) và tổng điểm mức độ (RSS- Cox 2). Điểm thấp hơn cho thấy sức khoẻ tốt hơn.
Đau bụng kinh có nhiều mức độ và nhiều yếu tố ảnh hưởng tác động vì vậu việc phân loại và đánh giá đúng mức độ đau bụng kinh là yếu tố quyết định hiệu quả điều trị trên lâm sàng. Hiểu rõ về đau bụng kinh giúp phụ nữ có phương án giảm đau an toàn, ngăn ngừa nhiều biến chứng và hương đến một chu kỳ kinh nguyệt nhẹ nhàng và khỏe mạnh.