Viêm tắc tia sữa, viêm tuyến vú trong đông y

Viêm tuyến vú và tắc tia sữa là những vấn đề thường gặp ở phụ nữ sau sinh, gây ra nhiều đau đớn và khó khăn trong quá trình nuôi con bằng sữa mẹ. Trong khi y học hiện đại tập trung vào các giải pháp y khoa như kháng sinh hay phẫu thuật, y học cổ truyền (YHCT) lại mang đến một cách tiếp cận toàn diện, lý giải nguyên nhân và điều trị bệnh dựa trên sự cân bằng khí huyết, kinh lạc và các yếu tố tâm sinh lý.

1. Khái niệm viêm tuyến vú trong y học cổ truyền

Trong Y học cổ truyền, viêm tuyến vú cấp tính được gọi là Nhũ ung (乳癰 – 乳痈). Tên bệnh xuất hiện sớm nhất trong sách 《针灸甲乙经·卷十二·妇人杂病第十 – Châm cứu Giáp Ất kinh》đời Tấn, quyển 12 – Phụ khoa. Bệnh được mô tả với các triệu chứng sưng – nóng – đỏ – đau tại vú kèm theo một số triệu chứng toàn thân như ớn lạnh, đau đầu, đau người. Bệnh có nét tương đồng với viêm tuyến vú cấp tính của Tây y.

Dựa trên thời điểm phát bệnh sách 《寿世保元·卷七·乳痈 – Thọ thế bảo nguyên 》đời Minh quyển 7 đã chia bệnh thành

  • Nội xuy nhũ ung – 内吹乳痈: bệnh xảy ra trong thai kỳ
  • Ngoại xuy nhũ ung – 外吹乳癰: bệnh xảy ra trong thời kỳ cho con bú

Trên lâm sàng ngoại xuy nhũ ung phổ biến hơn chiếm khoảng 95% các trường hợp. Nguyên nhân có thể khởi nguồn từ tắc tia sữa. Nếu không điều trị kịp thời và đúng cách có thể hình thành áp xe tuyến vú ảnh hưởng đến quá trình nuôi con và sức khỏe người mẹ.

2. Cơ chế bệnh sinh viêm tuyến vú, tắc tia sữa theo y học cổ truyền

Tắc tia sữa

Tắc tia sữa hay sữa tích tụ không thoát ra ngoài được là một trong các nguyên nhân phổ biến dẫn đến viêm tuyến vú.

Các nguyên nhân dẫn đến tắc tia sữa:

  • Núm vú phát triển không tốt: núm vú thụt, núm vú dị dạng…
  • Tư thế và cách cho con bú không đúng: Em bé ngậm vú không đúng cách, chỉ bú ở núm vú mà không ngậm hết quầng vú, hoặc bú không đủ sữa từ một phần của vú.
  • Không cho bú hoặc hút sữa thường xuyên: Người mẹ quá bận rộn, mệt mỏi, em bé bú không tích cực, bú không đều, hoặc ngủ quá lâu.
  • Núm vú bị nứt nẻ, có vảy bám làm tắc lỗ thoát sữa
  • Ngực bị chèn ép quá mức hoặc va đập gây tổn thương các ống dẫn sữa: Áo ngực quá chật, quần áo bó sát, hoặc nằm đè lên vú khi ngủ hoặc các va đập mạnh vùng vú.
  • Sản phụ có nhiều sữa nhưng không kịp thời hút sữa ra ngoài

Các nguyên nhân này dẫn đến sự tích tụ sữa trong các ống dẫn sữa khiến các ống này bị tắc nghẽn. Sữa không thông sinh đau, lâu ngày sinh nhiệt gây ra các triệu chứng sưng đỏ nóng. Nếu nhiệt thịnh quá sẽ làm thối rữa phần thịt mà hóa mủ (áp xe) thậm chí vỡ mủ.

  • Sách 《肘后备急方 – Trửu hậu bị cấp phương 》(Đời Tấn): “Sữa không thoát được ra ngoài, bên trong kết lại gọi là ‘đố nhũ’, nhanh chóng hóa thành ung nhọt.”
  • Sách 《太平圣惠方 – Thái bình thánh huệ phương》 (Đời Tống): “Phụ nữ sữa không ra được, bên trong kết sưng lại, gọi là ‘nhũ độc’.”
  • Sách 《疡科心得集 – Dương khoa tâm đắc tập》 (Đời Thanh): “Sữa vốn do huyết hóa thành, không thể thoát ra ngoài, liền kết lại sưng cứng.”
  • Sách 《圣济总录 – Thánh tễ tổng lục》 (Đời Tống): “Người mới sinh, mạch sữa đang lưu thông, nếu không tự cho con bú, sữa sẽ tích tụ lại, khí huyết dồn ứ mà thành nhũ ung.”
  • Sách 《诸病源候论·妬乳候 – Chư bệnh nguyên hậu luận》 (Đời Tùy): “Sau khi mới sinh, trẻ chưa bú được, hoặc bú không hết, hoặc cai sữa cho con nhưng vắt sữa không hết, đều khiến sữa tích tụ lại, kết hợp với khí huyết mà thành ung nhọt”.

Tất cả các tài liệu trên đều chỉ ra rằng sữa không thoát ra ngoài là nguyên nhân quan trọng gây ra nhũ ung.

Can khí uất kết kết hợp vị nhiệt ứ trệ

Theo YHCT núm vú thuộc kinh Can (túc Quyết âm can), bầu vú thuộc kinh Vị (túc Dương minh vị). Can chủ sơ tiết có vai trò điều hòa tiết sữa.

  • Can khí uất kết: Tình chí không thoải mái, căng thẳng, lo âu, giận dữ hoặc sợ hãi quá mức có thể ảnh hưởng đến kinh Can, gây ứ trệ khí huyết. Căng thẳng quá mức cũng có thể ảnh hưởng đến sự tiết oxytocin hoặc prolactin, làm giảm lượng sữa.
  • Vị nhiệt ứ trệ: nhiệt tích tụ ở kinh Vị do ăn uống không điều độ, dẫn đến nhiệt uất bế tắc kinh lạc, khí huyết ứ trệ
  • Sách 《丹溪心法·痈疽 – Đan Khê tâm pháp》 (Đời Nguyên): Người mẹ đang cho con bú, không biết điều dưỡng, tức giận uất ức, buồn bã lo lắng, ăn uống quá nhiều đồ béo bổ, dẫn đến khí của kinh Quyết âm không lưu thông, các lỗ sữa không thông, sữa không ra được. Huyết của kinh Dương minh sôi sục, nhiệt thịnh mà hóa mủ.
  • Sách 《外科正宗 – Ngoại khoa chính tông》(Đời Minh): Lại có người lo lắng u uất làm tổn thương Can, Can khí trì trệ mà kết sưng… Ăn uống béo bổ, giận dữ khiến Can hỏa bốc lên mà kết sưng
  • Sách 《医学入口 – Y học nhập môn》(Đời Minh): Bầu vú kết thành cục là do ăn uống béo bổ, giận dữ lo âu, dẫn đến Vị hỏa bốc lên, sữa hóa thành mủ đục. Kinh Can khí trì trệ, các lỗ sữa bị tắc, khiến cục kết không tan, đau không chịu được

Đông y cho rằng sản phụ tình chí không điều hòa, Can khí uất kết, mất đi khả năng sơ tiết, khí huyết bị bế tắc, tích tụ lại gây đau, lâu ngày hóa nhiệt. Hoặc do ăn uống không điều độ, ăn nhiều đồ béo ngọt, Vị hỏa bốc lên, làm tắc nghẽn kinh lạc, nhiệt hun đúc tại vú mà thành ung nhọt. Hoặc do uất và nhiệt kết hợp với nhau tại các ống dẫn sữa, khiến việc tiết sữa bất thường, lỗ sữa không thông, sữa tích lại bên trong mà gây ra bệnh này

Phong nhiệt tà độc ngoại xâm

Sau sinh, cơ thể phụ nữ suy yếu, các lỗ chân lông lỏng lẻo. Nếu bị ra mồ hôi và trúng gió, hoặc khi cho con bú mà bị tà khí xâm nhập, sẽ làm tắc nghẽn các ống dẫn sữa, hóa nhiệt mà thành nhũ ung.

  • Sách 《诸病源候论 – Chư bệnh nguyên hậu luận》(đời Tùy): Ăn đồ nóng ra mồ hôi, để hở ngực trúng gió, dễ phát sinh sưng vú, gọi là ‘xuy nhũ’, dần dần biến thành ung nhọt
  • Sách 《外科全生集 – Ngoại khoa toàn sinh tập》(đời Thanh): Phụ nữ bị hơi thở của trẻ thổi vào vú, dẫn đến bế tắc.
  • Sách 《疡科心得集 – Dương khoa tâm đắc tập》(đời Thanh): Nhũ ung phát sinh có khi do đang cho con bú, lỡ ngủ quên, hơi thở của trẻ thổi vào làm khí bên trong vú bị bế tắc, gây đau. Cứ như thế mà không chữa trị sẽ thành bệnh. Hoặc do trẻ đang bú có đờm dãi, hơi thở nóng, bú rồi ngủ quên, hơi nóng thổi vào vú làm ứ đọng không tan, sữa không thông, dẫn đến kết cục và hóa mủ.

Khi trẻ ngậm núm vú mẹ ngủ, hơi đờm nhiệt từ miệng trẻ có thể đi vào vú. Nếu núm vú bị nứt nẻ, ngoại tà càng dễ dàng xâm nhập vào các ống dẫn sữa, dẫn đến bế tắc, sữa không thông, nhiệt tích tụ lâu ngày mà thành ung, thậm chí hóa mủ.

Khí huyết tổn thương sau sinh

Trong thai kỳ, khí huyết dồn về nuôi dưỡng thai nhi, khiến toàn thân người mẹ tương đối thiếu hụt. Khi sinh, sản phụ dùng sức nhiều và mất máu, dẫn đến khí huyết càng suy tổn. Vì vú là nơi tập trung nhiều khí và huyết, và sau sinh khí huyết lại hóa thành sữa, nên cơ thể người mẹ dễ bị suy yếu, dễ bị tà khí xâm nhập.

Sách《诸病源候论·乳痈候 – Chư bệnh nguyên hậu luận》(đời Tùy): Do lao lực làm tổn thương khí huyết, mạch hư, tấu lý (lỗ chân lông) hư lỏng, hàn khí xâm nhập vào kinh lạc, hàn kết hợp với huyết, làm cho huyết bị sáp (tắc nghẽn) không lưu thông… nên kết tụ lại mà thành ung nhọt.

Nhiều bác sĩ Đông y cũng ủng hộ thuyết nhũ ung thuộc về chứng “biểu dương lý âm”.  Mặc dù lúc phát bệnh có các biểu hiện của nhiệt như sưng, nóng, đỏ, đau và sốt toàn thân, nhưng đó chỉ là phần ngọn của bệnh, gốc rễ vẫn là do cơ thể suy yếu và dương hư ở bên trong sau khi sinh.

3. Cơ chế bệnh sinh theo Tây y

Sữa ứ đọng

Giai đoạn đầu của viêm tuyến vú cấp tính thường biểu hiện bằng các phản ứng viêm, nhưng không nhất thiết là một tình trạng viêm nhiễm thực sự. Đó là do sữa không thoát ra ngoài, làm tăng áp lực bên trong ống dẫn sữa. Áp lực này khiến thành ống dẫn sữa mỏng đi, và sữa cùng các sản phẩm phân hủy của nó thấm vào mô kẽ của vú. Điều này gây ra các triệu chứng như đau và tăng nhiệt độ da cục bộ.

Có sáu nguyên nhân chính dẫn đến ứ đọng sữa:

  • Bất thường ở núm vú: Núm vú quá nhỏ, phẳng hoặc tụt vào trong, gây khó khăn cho trẻ khi bú, khiến trẻ không thể hút hết sữa trong vú.
  • Tắc nghẽn ống dẫn sữa: Do các ống dẫn sữa bẩm sinh hẹp hoặc bị xoắn, do chấn thương, hoặc do vú bị chèn ép quá mức. Các cặn sữa lắng đọng cũng có thể gây tắc nghẽn một phần, làm sữa chảy không thông.
  • Sữa quá đặc: Các bà mẹ mới sinh ăn quá nhiều thức ăn béo ngậy, giàu dinh dưỡng có thể làm sữa trở nên đặc hơn, gây khó khăn cho việc thoát sữa và làm tắc nghẽn ống dẫn.
  • Sữa quá nhiều: Tuyến vú tiết quá nhiều sữa so với nhu cầu của trẻ, dẫn đến lượng sữa dư thừa tích tụ lại trong vú.
  • Cho con bú không đúng cách: Sản phụ thiếu kinh nghiệm hoặc cho con bú sai tư thế, khiến trẻ không bú cạn sữa, làm sữa ứ đọng trong ống dẫn.
  • Co thắt núm vú: Một số sản phụ có thể bị co thắt cơ trơn bên trong các ống dẫn sữa lớn do nhiệt độ môi trường giảm hoặc mất cân bằng nội tiết, gây ra những cơn đau co thắt ở núm vú.

Nhiễm khuẩn

Viêm tuyến vú cấp tính là tình trạng viêm của các ống dẫn sữa và mô liên kết xung quanh. Tác nhân gây bệnh phổ biến nhất là tụ cầu vàng (Staphylococcus aureus), tiếp theo là liên cầu khuẩn (Streptococcus) và tụ cầu da (Staphylococcus epidermidis). Mặc dù cơ thể con người có hệ vi khuẩn thường trú, nhưng việc cho con bú làm môi trường bên trong vú vốn tương đối kín trở nên mở, tạo điều kiện thuận lợi cho viêm nhiễm. Sữa ứ đọng là môi trường lý tưởng cho vi khuẩn phát triển, làm bệnh tiến triển nặng hơn.

Có ba con đường chính dẫn đến nhiễm khuẩn:

  • Tiếp xúc với trẻ: Trẻ ngậm núm vú khi ngủ hoặc trẻ bị viêm miệng, vi khuẩn từ miệng trẻ xâm nhập vào ống dẫn sữa qua lỗ núm vú.
  • Tổn thương núm vú: Núm vú của sản phụ thường nhạy cảm. Trẻ bú quá mạnh hoặc sử dụng máy hút sữa không đúng cách có thể làm tổn thương và gây nứt núm vú. Vi khuẩn trực tiếp xâm nhập ngược dòng qua các vết nứt này vào bên trong ống dẫn sữa, gây phản ứng viêm.
  • Nhiễm khuẩn từ cơ thể mẹ: Vi khuẩn từ các ổ nhiễm trùng khác trên cơ thể sản phụ đi vào máu và đến vú. Khi sữa bị ứ đọng hoặc sức đề kháng của sản phụ suy giảm, vi khuẩn dễ dàng sinh sôi nảy nở tại chỗ. Ngoài ra, một số bà mẹ có thể bị viêm da cơ địa, viêm da tiếp xúc, hoặc nhiễm virus herpes simplex gây đau kéo dài, cũng ảnh hưởng đến việc cho con bú và dẫn đến bệnh.

Các yếu tố nguy cơ liên quan đến viêm tuyến vú cấp tính

Nghiên cứu của Rachel Knfmann và cộng sự chỉ ra rằng phần lớn các trường hợp viêm tuyến vú xảy ra trong 7 tuần đầu sau sinh với các yếu tố nguy cơ:

  • làm việc toàn thời gian,
  • sinh con sau 30 tuổi,
  • mẹ của trẻ làm công việc đòi hỏi kỹ năng chuyên môn hoặc quản lý (trình độ học vấn cao.
  • Phụ nữ sinh con tại phòng sinh cần hỗ trợ y tế (có tỷ lệ mắc bệnh cao hơn so với sinh tại phòng sinh thường.
  • Việc từ chối khám sau sinh cũng làm tăng nguy cơ nhiễm trùng.

4. Triệu chứng và giai đoạn của viêm tuyến vú theo Y học cổ truyền

Y học cổ truyền phân chia viêm tuyến vú thành 3 giai đoạn chính:

Giai đoạn ứ trệ: Đây là giai đoạn đầu của tắc tia sữa và viêm tuyến vú

  • Triệu chứng cục bộ: Thường có núm vú nứt nẻ, đau nhói khi cho con bú, sữa tích tụ hoặc có cục cứng ở vú, sưng đau cục bộ, có hoặc không có cục u, ấn vào thấy đau. Da vú có thể không đỏ hoặc hơi đỏ, không nóng hoặc hơi nóng.
  • Triệu chứng toàn thân: Có thể không rõ ràng hoặc kèm theo khó chịu toàn thân, ớn lạnh, sốt, đau đầu, tức ngực, cáu gắt, ăn uống kém, táo bón.
  • Thiệt chẩn – Mạch chẩn: Lưỡi đỏ nhạt hoặc đỏ, rêu lưỡi mỏng vàng hơi nhớt. Mạch huyền hoặc phù sác.

Giai đoạn thành mủ: Nếu không được xử lý kịp thời, tình trạng sẽ tiến triển đến giai đoạn hình thành mủ.

  • Triệu chứng cục bộ: Cục u ở vú không tiêu hoặc lớn dần, da vú đỏ, sưng, nóng rát, đau cục bộ tăng rõ rệt (đau như bị mổ, hoặc đau nhói theo nhịp mạch), không thể chạm vào. Cục u mềm dần ở trung tâm, ấn vào có cảm giác dao động.
  • Triệu chứng toàn thân: Kèm theo sốt cao không hạ, đau đầu, xương khớp mỏi, miệng đắng, họng khô, buồn nôn, chán ăn, tiểu đỏ, táo bón. Hạch bạch huyết nách bên cùng bên sưng đau. Xét nghiệm máu cho thấy bạch cầu tăng cao rõ rệt, chọc hút cục bộ có mủ.
  • Thiệt chẩn – Mạch chẩn: Lưỡi đỏ hoặc đỏ sẫm, rêu lưỡi vàng hoặc nhớt. Mạch huyền hoạt sác.

Giai đoạn vỡ mủ: Khi áp xe chín, có thể tự vỡ chảy mủ hoặc được phẫu thuật rạch và dẫn lưu.

  • Triệu chứng cục bộ: Nếu mủ chảy ra thông suốt, sưng đau cục bộ giảm, sốt giảm dần, vết thương dần lành lại. Nếu ổ mủ sâu hoặc có nhiều ổ mủ, mủ chảy không thông, sưng không giảm, đau không giảm, sốt không hạ, hình thành áp xe hoặc viêm tuyến vú có mủ lan rộng.
  • Nếu tình trạng bệnh không được giải quyết kịp thời, sữa lẫn với mủ loãng chảy ra từ vết thương, hình thành rò sữa, vết thương chậm lành cho đến khi cai sữa mới đóng miệng vết thương.

Y học cổ truyền phân thể

  • Khí trệ nhiệt ủng: Sữa ứ đọng thành cục, da vú không đổi màu hoặc hơi đỏ, sưng đau. Kèm theo ớn lạnh, sốt, đau đầu, đau mỏi toàn thân, khát nước, táo bón. Rêu lưỡi vàng, mạch sác.
  • Nhiệt độc sí thịnh: Sốt cao, vú sưng đau, da vú đỏ rực, nóng rát, cục u mềm và có cảm giác dao động. Hoặc sau khi rạch dẫn lưu mủ không thông, sưng đỏ nóng đau không giảm, có hiện tượng “truyền nang” (lan rộng). Lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng nhớt, mạch hồng sác.
  • Chính hư độc luyến: Sau khi vỡ mủ, sưng đau vú giảm nhẹ nhưng vết thương liên tục chảy mủ, mủ loãng, lành chậm hoặc hình thành rò sữa. Toàn thân mệt mỏi, sắc mặt kém, hoặc sốt nhẹ không hạ, ăn uống giảm. Lưỡi nhạt, rêu mỏng, mạch yếu vô lực.

5. Phương pháp điều trị viêm tắc tia sữa, viêm tuyến vú theo Y học cổ truyền

Nguyên tắc chung: Lưu thông – Tiêu tán – Tán kết với mục tiêu quan trọng nhất là giải phóng sữa ứ đọng.

Thuốc uống trong

Tùy thuộc vào tình trạng của người bệnh để lựa chọn và phối ngũ các vị thuốc

  • Sơ can lý khí: Sài hồ, Thanh bì, Uất kim, Trần bì…
  • Thanh nhiệt giải độc: Kim ngân hoa, Bồ công anh, Liên kiều, Sơn từ cô. Bồ công anh đặc biệt quan trọng vì tính hàn, vị ngọt đắng giúp tả hỏa giáng khí, thanh nhiệt giải độc, tiêu trệ khí, thông kinh hạ nhũ, rất tốt trong điều trị mụn nhọt, sưng tấy. Nghiên cứu dược lý hiện đại cho thấy Bồ công anh có tác dụng ức chế tụ cầu vàng.
  • Khoan hung, hóa đàm, tán kết: Qua lâu, Chiết bối mẫu, Sinh mẫu lệ, Hạ khô thảo, Ngưu bàng tử, Ty qua lạc (xơ mướp)
  • Thông nhũ: Tạo giác, Lộ lộ thông, Ty qua lạc, Vương bất lưu hành tử
  • Hoạt huyết lý khí: Xích thược, Đan sâm, Diên hồ sách, Thổ miết trùng, Mã tiền tử chế (không quá 2g)
  • Bổ lưỡng thận: Để củng cố hiệu quả và ngăn ngừa tái phát có thể dùng Nữ trinh tử, Câu kỉ tử, Lộc giác sương, Phá cố chỉ, Xuyên tục đoạn, Thỏ ty tử, Mẫu lệ, Chiết bối mẫu.
  • Các bài thuốc thường dùng:  Qua lâu ngưu bàng thang cho giai đoạn ứ trệ, kết hợp Thấu nùng tán cho giai đoạn thành mủ; Thác lý tiêu độc tán cho giai đoạn vỡ mủ.

Châm cứu

Áp dụng được cho tất cả các giai đoạn

Kinh lạc liên quan: Vú thuộc kinh Vị, núm vú thuộc kinh Can. Bệnh lý phát sinh do Vị nhiệt và Can khí uất kết.

Bộ huyệt vị thường dùng:

  • Thanh vị nhiệt: Túc tam lý, Hợp cốc
  • Sơ can thanh nhiệt: Hành gian, Thái xung, Nội quan
  • Thông nhũ, giáng khí, tán kết: Thiếu trạch chích xuất huyết
  • Kích thích mạnh các huyệt: Kiên tỉnh, Kỳ môn, Túc tam lý, lưu kim 15 phút, mỗi ngày châm 1 lần, thêm Khúc trì
  • Phương pháp “thông nhũ châm” hiện đại còn đặc biệt chú trọng điều chỉnh sức căng của thành ngực và cân mạc vú bằng kim rất mảnh, nhẹ nhàng, không đau, giúp giảm tắc nghẽn và thúc đẩy tiết sữa. Điều trị sớm bằng phương pháp này giúp quá trình tiết sữa diễn ra thuận lợi hơn, tăng cơ hội nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ.

Thủ liệu pháp

Thủ liệu pháp – phương pháp dùng tay quan trọng đặc biệt trpng giai đoạn Ứ trệ.

Thủ pháp xoa bóp đẩy sữa gồm nhu pháp – tán pháp. Bắt đầu xoa bóp nhẹ nhàng xung quanh vùng bị ảnh hưởng trong 5 phút. Sau đó, dùng bốn ngón tay đỡ vú, hai ngón cái luân phiên xoa đẩy trên cục u, bắt đầu từ phía trên cục u xuống núm vú. Tiếp theo, dùng ngón cái và ngón trỏ nắm bóp cục u từ trên xuống núm vú, tăng dần lực tùy theo khả năng chịu đựng của bệnh nhân. Kết hợp day ấn các huyệt như kiên tỉnh, Đản trung, Nhũ căn, Linh khư, Ốc ế, Kỳ môn, Túc tam lý, Nội quan, Hợp cốc, Lương khâu, Thái xung.

Thủ pháp thông thường: Thoa dầu trơn, nâng vú, kéo nhẹ núm vú và quầng vú. Massage theo hướng các ống dẫn sữa từ đáy vú đến quầng vú trong 3-5 phút. Sau đó, kẹp quầng vú và núm vú để đẩy sữa ra ngoài cho đến khi cục u tan hết, vú mềm, sữa ứ đọng được loại bỏ và đau giảm đáng kể. Có thể kết hợp với giác hơi, cứu ngải, chườm nóng, hỏa long quán… để làm ấm và thông kinh lạc, hoạt huyết giảm đau.

Lưu ý: Tuyệt đối không nên xoa bóp mạnh cục u vì có thể gây tổn thương mô vú, làm trầm trọng thêm tình trạng viêm và tắc nghẽn.

Phương pháp bên ngoài

  • Đắp thuốc: có thể sử dụng các loại cao dán chuyên dụng hoặc dùng các loại thảo dược giã nát như bồ công anh, cúc tươi… đắp vào vùng bị ảnh hưởng.
  • Xông rửa và chườm nóng: sắc bồ công anh lấy nước xông hơi, rửa hoặc dùng khăn thấm nước thuốc nóng đắp lên vú. Ngoài ra có thể sử dụng các loại túi chườm nóng thảo dược.

Chăm sóc và phòng ngừa tắc tia sữa, viêm tuyến vú

  • Nghỉ ngơi đầy đủ, tránh mệt mỏi và căng thẳng quá mức.
  • Cố gắng giữ tâm trạng thoải mái và ổn định
  • Ăn uống thanh đạm, đủ dinh dưỡng, dễ tiêu hóa, nhiều rau quả tươi. Tránh các thực phẩm nhiều dầu mỡ, cay nóng, rượu và các thực phẩm lợi sữa quá mức trong giai đoạn cấp tính vì có thể làm nặng thêm tình trạng viêm. Bổ sung đủ nước để giảm độ đặc của sữa (có thể bổ sung tổng lượng nước từ 1500ml đến 3000ml).
  • Cho con bú đúng cách: Cho con bú sớm và thường xuyên theo nhu cầu của bé, không giới hạn tần suất và thời gian bú. Đảm bảo bé ngậm bắt vú đúng cách và bú hết sữa ở mỗi bên vú. Thay đổi tư thế bú để làm rỗng các phần khác nhau của vú, đặc biệt hướng cằm bé về phía cục cứng. Nếu bé ngủ quá lâu hoặc bú không tích cực, có thể vắt sữa bằng tay để giảm sưng.
  • Chăm sóc vú: Vệ sinh vú sạch sẽ trước và sau khi cho con bú. Cải thiện tình trạng núm vú thụt vào. Nếu núm vú bị tổn thương có thể bôi thuốc điều trị nhưng cần rửa sách bằng nước ấm trước khi cho con bú.
  • Sử dụng áo ngực thoải mái, không quá chật, hạn chế loại có gọng kim loại, tránh chèn ép quá mức.
  • Chườm nóng 2-3 trước khi cho con bú. Không nên chườm nóng ngay lập tức hoặc quá lâu khi bị tắc tia sữa, đặc biệt nếu có dấu hiệu viêm, vì có thể làm giãn mạch, tăng sưng và tắc nghẽn nặng hơn.
  • Bổ sung thêm Lecithin giúp làm giảm độ đặc của sữa, làm sữa dễ chảy hơn và giảm nguy cơ tắc nghẽn.
  • Vắt sữa bằng tay rất quan trọng để giúp thông tắc ống dẫn sữa và giảm sưng quầng vú.

Dấu hiệu cần sự hỗ trợ y tế

  • Nếu sữa tắc nghẽn được giải phóng, tắc tia sữa và viêm tuyến vú thường cải thiện trong vòng một ngày.
  • Nếu các triệu chứng trở nên rất nghiêm trọng, sốt cao (trên 38-38.5°C), mệt mỏi, núm vú bị nứt nẻ, da vú đỏ và nóng rát, hoặc các triệu chứng không cải thiện trong vòng 24 giờ sau khi sữa được giải phóng, cần đến gặp bác sĩ ngay lập tức. Đây có thể là dấu hiệu của viêm tuyến vú nhiễm trùng.
  • Trong các trường hợp nhiễm trùng, có thể cần sử dụng kháng sinh, thường là kháng sinh chống tụ cầu vàng. Quan trọng là phải hoàn thành đủ liệu trình kháng sinh (7-10 ngày) ngay cả khi cảm thấy tốt hơn để tránh tái phát hoặc kháng thuốc. Hầu hết các loại kháng sinh này an toàn cho trẻ bú mẹ.
  • Nếu các cục cứng không biến mất hoặc không nhỏ lại sau vài tuần, cần tìm bác sĩ chuyên khoa.
  • Nếu xuất hiện mủ hoặc áp xe, có thể cần chọc hút hoặc phẫu thuật dẫn lưu.

Viêm tắc tia sữa, viêm tuyến vú là bệnh lý gây đau đớn cho mẹ và ảnh hưởng nghiêm trọng đến quá trình nuôi con bằng sữa mẹ vì thế việc kết hợp y học cổ truyền và y học hiện đại trong điều trị để đạt được kết quả tốt nhất trong thời gian ngắn nhất là ưu tiên hàng đầu. Việc điều trị sớm giúp giảm nguy cơ hình thành áp xe qua đó giảm nguy cơ phải can thiệp phẫu thuật. Ngay khi phát hiện bất thường tại vú hoặc tình trạng bất thường của tia sữa, các mẹ cần lập tức thăm khám và điều trị càng sớm càng tốt.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *